NHÀ TRƯNG BÀY KHU DI TÍCH
LỊCH SỬ CÔN ĐẢO:
Nói về du lịch Côn Đảo
thì có rất nhiều cái để trải nghiệm, mỗi hành trình là một sự trải nghiệm kỳ
thú cho du khách cũng như những ACE làm du lịch Côn Đảo,
lịch sử Côn
Đảo tuy không dài nhưng là chặng đường đầy chông gai và nước mắt, là một
quá khứ không thể nào quên với các vị lãnh đạo, nhưng cựu tù Côn Đảo, là một kỷ
niệm sâu sắc cho những ai đã từng là tù nhân Côn Đảo.
Khám phá, tìm hiểu lịch
sử Côn Đảo
có nhiều điều thú vị, có khi tưởng chừng chúng ta được sống trong thời kỳ thực
dân đế quốc bị tù đày, bị tra tấn, bị đàn áp, nói như vậy bởi vì di tích lịch
sử Nhà Tù Côn
Đảo hầu như còn được bào tồn nguyên vẹn, là một bằng chứng sống về tội ác
dã man của những tên chúa đảo, những cai ngục khét tiếng lúc bấy giờ. Lịch sử
là những điều không thể phủ nhận được, Côn Đảo còn
là bài học trải nghiệm sâu sắc đối với thế hệ sau này, chỉ một lần đến Côn Đảo cũng đủ làm ta hiểu được
giá trị tinh thần của huyện đảo hoang sơ và kỳ thú này. Dù nhiều lần đi du lịch Côn Đảo
nhưng không thể trải nghiệm hết được vùng đất thiêng liêng này có thể nói Côn Đảo là một thành trì vĩnh cữu
cho thế hệ mai sau hiểu được để giành được tự do cho dân tộc, để bảo vệ đất
nước, để có hòa bình như ngày hôm nay phải trả giá bằng biết bao nhiêu
xương máu của đồng bào, của các cô, các chú của những bậc tiền bối thế hệ trước
của Cách Mạng Việt Nam. Nếu chỉ đọc qua sách báo, xem video clip, phóng sự về Côn Đảo thật sự vẫn chưa hiểu hết
về Côn Đảo bằng sự trải nghiệm
của chính bản thân khi đi du lịch Côn Đảo,
phải chăng vùng đất thiêng liêng này có cái gì đó cuốn hút chúng ta?
Nhiều lần viết về Côn Đảo, về du lịch Côn Đảo
về sự trải nghiệm Côn Đảo bằng
nhật ký lữ hành nhưng thật sự mỗi chuyến đi du lịch Côn Đảo cho ta sự
nhìn nhận khác nhau về Côn Đảo,
bài viết lần này, mình xinh giới thệu đến ACE về một di tích lịch sử, tuy không
nằm ở Côn Đảo nhưng lại lien quan mật thiết đến Côn Đảo, hy vọng qua bài viết về Côn Đảo lần này sẽ truyền được
cho các ACE, quý du khách cảm nhận được sâu sắc về lịch sử Côn Đảo.
Nhà trưng bày lịch sử Côn Đảo là một khu di tích
nằm trong khuôn viên của trường Taberd cũ (nay là trường Trung Học Phổ Thông Lê
Lợi, thành phố Sóc Trăng), nghe có vẻ rất vô lý nhưng thật sự mình cũng vừa
khám phá ra điều nay qua chuyến du lịch Côn Đảo tháng 9 vừa qua. Dù
đây chỉ là một chi tiết nhỏ trong lịch sử Côn Đảo nhưng mình nghĩ nó sẽ rất
quan trọng với những ai đang tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử Côn Đảo, khách du lịch đến Côn Đảo và cũng là một chi tiết khá thú vị đối với các
hang lữ hành, biết đâu một ngày nào đó họ sẽ tổ chức được những chuyến du lịch
về nguồn với chủ đề “hành trình theo những dấu chân của những cựu tù Côn Đảo”.
Quay ngược dòng lịch sử
vào ngày 23 tháng 09 năm 1945, đây là nơi đã đón tiếp đoàn tù chính trị Côn Đảo trở về đất liền. Trong đó
có các đồng chí sau này là Lãnh Đạo Đảng, Nhà Nước như: Tổng Bí Thư Lê Duần,
Ông Nguyễn Văng Linh, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng
Phạm Hùng
Hiện nay Nhà Trưng Bày
Khu Di Tích có điện tích khoảng 300m2. Đến tham quan, du khách được tiếp cận
với nhiều hiện vật, hình ảnh, tư liệu về nhà tù Côn Đảo, các sơ đồ vẽ, dựng lại cảnh
đón rước đoàn tù chính trị Côn Đảo
về Sóc Trăng. Nhà trưng bày còn có một gian riêng giới thiệu về quê hương, cuộc
đời của Chủ Tịch Tôn Đức Thắng cùng nhiều hiện vật, hình ảnh có giá trị khác
của quân dân Sóc Trăng trong kháng chiến. Khu Di Tích này đã được Bộ Văn Hóa
Thông Tin cấp bằng công nhận Trường Taberd là Di Tích Lịch Sử Văn Hóa năm
1995.
Đạt xin giới thiệu chi
tiết hơn về khu di tích này
DI TÍCH LỊCH SỬ TRƯỜNG
TABERD SÓC TRĂNG
Nơi “Đoàn chính trị phạm
từ Côn Đảo về Sóc Trăng ngày 23/9/1945”
Phường 6, thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Di tích lịch sử lưu niệm
đoàn chính trị phạm từ Côn Đảo
về Sóc Trăng ngày 23/9/1945 có tên gọi là trường Taberd Sóc Trăng.
Trường nằm trên
địa bàn phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Phạm vi của ngôi trường
được khung trong một vòng tường rào gần vuông vức (104 m x 107 m), bốn cạnh
quay ra 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Cổng trường đặt ở giữa cạnh rào hướng
Đông. Bên ngoài vòng rào là 4 đoạn đường nội ô bao bọc xung quanh, đường Mậu
Thân 68 ở mặt Đông, đường Calmette ở mặt Tây, đường Lê Lợi mặt Nam và đường Lý
Thái Tổ mặt Bắc. Trường cách trung tâm thành phố Sóc Trăng 1 km, cách UBND
phường sáu 650 m. Phương tiện giao thông thuận tiện nhất để đi đến di tích là
đường bộ.
Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, đất nước ta vừa giành được tự do, độc lập, thì cách mạng
lại đứng trước muôn vàn khó khăn. Đó là những vấn đề về giặc đói, giặc dốt, đặc
biệt nghiêm trọng là giặc ngoại xâm. Ở miền Bắc, 18 vạn quân Tưởng và theo sau
là bọn Việt gian theo lệnh Mỹ kéo vào. Ở miền Nam, quân Anh và sau chúng là
quân Pháp cùng 6 vạn quân Nhật đang nằm tại chỗ chưa được giải giáp. Mặc dù kẻ
thù mâu thuẫn nhau về quyền lợi, nhưng chúng thống nhất mưu đồ tiêu diệt thành
quả cách mạng tháng Tám vừa giành được và tiêu diệt Đảng Cộng sản Việt Nam hòng
thôn tính đất nước ta một lần nữa.
Trường Taberd ngày nay. Ảnh:N.H
Cách mạng nước ta đang
đứng trong một tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền cách mạng vừa
phải lo ổn định đời sống cho nhân dân, vừa phải lo đối phó với trăm mưu ngàn kế
của kẻ thù. Song song với những công tác khẩn trương lúc này, tại miền Nam, Xứ
ủy Nam kỳ còn chủ trương thực hiện một công tác đặc biệt quan trọng nữa
phải làm cấp bách là việc tổ chức đón rước những chiến sĩ cách mạng từ ngục tù
đế quốc ở Côn Đảo trở về đất
liền. Chủ trương này được sự thống nhất và hỗ trợ của Trung ương (Đồng chí
Hoàng Quốc Việt là đại diện trực tiếp).
Ở Sài Gòn, đêm 25/8/1945,
Xứ ủy Nam kỳ họp tại nhà đồng chí Phạm Ngọc Thạch để bàn bạc giải quyết nhiều
vấn đề, trong đó có vấn đề đón rước các chiến sĩ Côn Đảo về, Nghị quyết nêu rõ:
“…
1. Thành lập Ủy Ban ủng
hộ Chính trị phạm, trụ sở tại toà soạn báo Dân Chúng.
2. Tổ chức đón rước các
đồng chí ở Côn Đảo về tham gia
xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, việc này Xứ ủy giao cho hai đồng chí
Đào Duy Kì và Nguyễn Công Trung phụ trách.
3. Điện cho Ủy Ban cách
mạng lâm thời các tỉnh ven biển phải ủng hộ và đáp ứng các yêu cầu của Ban tổ
chức đón rước…”.
Về phương tiện đón rước
các chính trị phạm, Xứ ủy giao cho đồng chí Tưởng Dân Bảo chịu trách nhiệm
chính, cùng cộng tác có đồng chí Lý Văn Chương lo vận động một đoàn tàu ghe đi
biển. Hai đồng chí đã liên hệ ngay với Tỉnh ủy Cần Thơ để tìm tàu thì được biết
có chiếc tàu buôn muối “Phú
Quốc” từ Sài Gòn qua Đại Ngãi (Sóc Trăng). Tỉnh ủy Cần Thơ
điện lên Xứ ủy và Ủy ban hành chính Nam bộ đề nghị trưng dụng chiếc tàu này. Xứ
ủy đồng ý, hai đồng chí liền cho tàu từ Sài Gòn qua Gò Công (Mỹ Tho-Tiền
Giang), Long Phú, Mỹ Thanh (Sóc Trăng) và huy động được thêm 30 chiếc ghe biển.
Ngày 15/9/1945, đoàn tàu
ghe tới Đại Ngãi, nhưng đến đây tàu Phú Quốc bị hư máy. Đồng chí Tưởng Dân Bảo
phải đi bộ về Sóc Trăng gặp đồng chí Dương Kỳ Hiệp - Bí thư Tỉnh ủy lâm thời
tỉnh Sóc Trăng nhờ sự giúp đỡ.
Đồng chí Tưởng Dân Bảo
đến Sóc Trăng trong lúc Tỉnh ủy và Ủy ban lâm thời đang lo triển khai một loạt
công tác cấp bách để bảo vệ chính quyền và ổn định đời sống nhân dân. Dù đang
bề bộn công việc, nhưng trước yêu cầu đột xuất của Xứ ủy, Tỉnh ủy và Ủy ban lâm
thời tỉnh Sóc Trăng đã sẵn sàng chấp thuận với tinh thần và trọng trách cao độ.
Liền đó Tỉnh ủy triệu tập ngay một cuộc họp để bàn kế hoạch và phân công:
- Các đồng chí Sáu Chô,
Tư Đước, Tám May lo sửa tàu Phú
Quốc. Đồng chí Tư Đước còn sung công chiếc tàu Sonltena chạy khách Sóc
Trăng - Nam Vang của mình và cùng các ông Nguyễn Văn Tư (tức ông Đội Đá), Phan
Thành Sâm lái con tàu này ra Côn
Đảo.
- Hai đồng chí Quế Hương,
Dương Văn Tề lo tìm người biết nghề sông nước thủy thủ.
- Đồng thời các đồng chí
còn vận động huỵên Long Phú mượn thêm 15 chiếc ghe biển loại lớn để thay thế
cho những chiếc ghe nhỏ không đủ khả năng vượt biển.
Khi mọi công việc đã được
khẩn trương tiến hành chu đáo, ngày 18/8/1945 đoàn tàu ghe gồm 27 chiếc nhổ neo
xuất phát. Đến trưa ngày 20/9/1945 đoàn cập bến Côn Đảo, ghe đậu bến Cỏ May, tàu
thì đậu bến Cỏ Ống. Mọi người gặp nhau mừng mừng tủi tủi, trong niềm hân hoan
hừng hực khí thế cách mạng.
Ba giờ sáng ngày
22/9/1945 tàu Phú
Quốc về đến bến Đại Ngãi, chiều tối hôm đó đoàn ghe 25 chiếc cũng cập bến
sau (còn 2 chiếc lạc vào Vàm Láng (Gò Công)). Theo dự kiến, đoàn sẽ cập bến Sài
Gòn hoặc Mỹ Tho nhưng ngày 23/9/1945 thực dân Pháp trở lại gây hấn ở Sài Gòn,
Xứ ủy đã kịp thời chỉ đạo cho đoàn cập bến Đại Ngãi, thuộc địa bàn Sóc Trăng và
giao nhiệm vụ cho Tỉnh ủy Sóc Trăng đón tiếp đoàn.
Mãi tới trưa ngày
23/9/1945, đồng chí Dương Kỳ Hiệp mới nhận được thông báo chính thức của Xứ ủy.
Nhiệm vụ thật đột xuất và cấp bách, Tỉnh ủy lập tức cử cán bộ đi các địa phương
mở một đợt vận động nhân dân ủng hộ đoàn chiến sĩ từ Côn Đảo trở về. Mặt khác, cử đồng
chí Nguyễn Văn Phòng, bà Maria Vân (tức Tư Vân), bà Giang (vợ ông Dương Kỳ Nam)
lo chuẩn bị nơi ăn, chỗ ở, thuốc trị bệnh… các đồng chí Lưu Khánh Đức, Nguyễn
Thảo Hiền lo công tác bảo vệ.
Về địa điểm nghỉ ngơi,
sinh hoạt cho đoàn, Tỉnh ủy chọn trường Taberd - một trường tiểu học nội trú do
tổ chức Công giáo của chính quyền thực dân Pháp xây dựng từ năm 1912. Trường có
sân rộng rãi, mát mẻ, có hai dãy nhà lầu 2 tầng kiên cố, có nhà làm việc, nhà
ăn, nhà bếp và nhà giải trí thể thao… đầy đủ tiện nghi cho mấy ngàn người đến
nghỉ. Lúc này, do yêu cầu của các linh mục và tín đồ Công giáo Việt Nam, những
người ngoại quốc làm công tác tôn giáo ở Sóc Trăng đều phải trở về Sài Gòn, nhà
trường, tu viện đều do các linh mục Việt Nam phụ trách. Vì vậy, khi yêu cầu của
Tỉnh ủy đặt ra, các vị linh mục phụ trách nhà trường đã nhiệt tình ủng hộ.
Với ngọn lửa cách mạng
đang bừng cháy trong lòng, với niềm tin yêu các chiến sĩ cách mạng bị tù đày
như anh em ruột thịt của nhân dân Sóc Trăng, với tinh thần trách nhiệm và sự tổ
chức chu đáo của Tỉnh ủy Sóc Trăng, chỉ ngay trong ngày hôm đó, mọi công việc
đã chuẩn bị xong. Hàng chục tấn gạo, đường, muối, hàng trăm con heo, gà vịt, và
hàng ngàn bộ quần áo, chăn, mền, chiếu, mùng, ván … được nhân dân quyên góp để
chuẩn bị đón đoàn, một đội phục vụ gồm hàng trăm nam nữ thanh niên đã ở trong
tư thế sẵn sàng.
Vào 7 giờ tối ngày
23/9/1945, một đoàn khoảng 2.300 người (trong đó có 1.825 tù chính trị) về đến
tỉnh lỵ Sóc Trăng (nay là thành phố Sóc Trăng) tại Cầu Nổi và được đưa ngay về
trường Taberd. Tất cả các địa điểm trong thị xã, khi đoàn chiến sĩ Côn Đảo về
đều diễn ra cảnh đón tiếp nồng nhiệt. Cờ, biểu ngữ rợp trời, mọi người đều vui
mừng bận rộn, quang cảnh thật nhộn nhịp đằm thấm. Từ Cầu Nổi, đoàn chiến sĩ đã
đi trong rừng đuốc, rừng cờ biểu ngữ và tiếng reo vui vang trời. Đồng chí Dương
Kỳ Hiệp dẫn đầu đoàn cán bộ Tỉnh ủy Sóc Trăng ra tận nơi đón đoàn và đưa thẳng
về trường Taberd. Các đồng chí được chăm sóc hết sức chu đáo. Đến 9 giờ đêm,
công việc đón tiếp đã được ổn định.
Sáng hôm sau, ngày
24/9/1945, một cuộc mít tinh lớn chào mừng đoàn được tổ chức tại sân trường Taberd,
cuộc mít tinh đã trở thành một cuộc biểu dương lực lượng ủng hộ chính phủ lâm
thời do cụ Hồ Chí Minh đứng đầu, kiên quyết đánh Pháp để giữ vững đất nước độc
lập. Từ đó đến ngày 30/9/1945 sân trường Taberd lúc nào cũng nhộn nhịp những
người và người. Đại diện Tỉnh ủy Cần Thơ
- đồng chí Lê Văn Sô đã đến gặp Tỉnh ủy Sóc Trăng và đi thăm anh em tù chính
trị ở trường Taberd.
Ngày 30/9/1945, đoàn
chiến sĩ Côn Đảo lên đường về
Cần Thơ để nhận nhiệm vụ mới. Cùng ngày, một đoàn chiến sĩ Côn Đảo về sau, cập
bến Cần
Thơ, tại đây, cũng diễn ra cuộc đón tiếp như ở Sóc Trăng.
Đoàn tù chính trị
từ Côn Đảo trở về sau biết bao
gian lao và vất vả, đã theo lời kêu gọi của Đảng tỏa đi tham gia kháng chiến
chống Pháp ở khắp mọi miền đất nước.
Trong số chính trị phạm
do đồng bào Sóc Trăng đón tiếp năm 1945 đã có rất nhiều đồng chí trở thành cán
bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta như: đồng chí Tôn Đức Thắng là Chủ tịch
nước, hai đồng chí là Tổng Bí thư Đảng (đồng chí Lê Duẩn và Nguyễn Văn Linh),
đồng chí Phạm Hùng là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ),
và hàng chục đồng chí là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và tướng lĩnh trong
quân đội ta.
Trường Taberd là một tổng
thể kiến trúc bằng vật liệu nặng: xi-măng, gạch, ngói, xây dựng vào khoảng
những năm từ 1912 đến 1915, phạm vi nhà trường được xác định trong một khung
tường rào vuông vức có diện tích 11.128 m2, 4 cạnh rào quay về 4 hướng.
Khu trưng bày tưởng niệm. Ảnh: N.H
Cổng trường rộng 4,2 m
đặt giữa mặt rào phía Đông. Trên cổng, một tấm biển tên trường được đúc bằng
xi-măng đẹp có hình cầu vồng vắt ngang đầu 2 cột trụ cổng. Từ cổng, một con
đường nhựa rộng 3 m chạy thẳng vào xuyên ngang giữa sân trường và dừng lại tiếp
giáp với nhà giải trí thể thao dài 60 m, rộng 12,6 m nằm vắt ngang thẳng góc
với con đường, nhà này có khung sườn gồm hai hàng cột vuông xếp song song, mỗi
hàng có 14 cột cao 5 m đỡ hai mái nghiêng lợp bằng tol.
Trên con đường nhựa giữa
sân, cách cổng trường 28 m, một bệ hình trụ bằng ciment, đường kính 0,6 m, cao
2,0 m, quanh thân bệ có 2 đường gờ ciment xoắn ốc làm cho bệ giống như một mũi
khoan khổng lồ đang khoan sâu xuống lòng đất, trên bệ này trước đây nhà trường
đặt tượng một nhà khoa học người Pháp. Sau bệ cột là cờ cao dựng trên nền
xi-măng tròn tam cấp. Từ vị trí cột cờ và bệ tượng, một con đường khá thẳng góc
với đường giữa sân dẫn qua hai dãy nhà hai bên sân trường. Sân trường bằng
phẳng, rộng rãi, trên sân có 8 cây cồng to trồng đã lâu năm, tàng rộng vươn ra
rợp mát cả sân trường.
Hai dãy nhà hai bên sân
trường là hai công trình chính của toàn khu, mỗi dãy có chiều ngang rộng 13,5
m, kéo dài 76,80 m theo hướng Đông - Tây. Hai đầu cuối của hai dãy này (từ phía
Tây) tiếp giáp hai đầu nhà giải trí thể thao thành hình chữ U vuông góc nằm án
ngữ 3 phía sân trường tạo nên một không gian khép kín, yên tĩnh biệt lập với
khung cảnh sinh hoạt huyên náo bên ngoài. Dãy phía bên trái cổng trường, cách
tường rào bên hướng Nam 6,0 m, gồm một căn nhà trệt dài 20,8 m, tường xây, 4
mái lợp ngói dính liền với một dãy lầu 2 tầng dài 50 m, ở phần trệt của dãy nhà
có hai hành lang rộng 2 m chạy dài hai bên mỗi bên hành lang có 20 cửa vòm rộng
3 m, đỉnh vòm cao 3,85 m (làm theo mô típ Rô-măng cổ điển). Cửa vòm hành lang
không có cánh, có đắp hình tượng cách điệu tượng trưng một cây đuốc (soi sáng
trí tuệ) tạo cho kiến trúc nốt nhấn bớt vẻ đơn điệu.
Tầng trệt của dãy lầu cao
4,20 m được ngăn thành một dãy phòng học tương ứng với từng đôi cửa vòm hành
lang hai bên, mỗi phòng học có một đôi cửa thông ra ngoài hành lang, mỗi cửa
hai cánh và rộng 1,20 m, cao 2,10 m đủ cho ánh sáng thiên nhiên từ bên ngoài
qua hành lang hoà vào khắp phòng. Đường lên lầu thông qua hai cầu thang bằng gỗ
chắc chắn đặt tại hai phòng đầu và hai tầng trệt.
Tầng lầu có chu vi và
chiều cao (tính đến trần lầu) bằng với tầng trệt nhưng không có hành lang hai
bên, ngăn cách với tầng trệt bởi một nền bê tông dày 40 cm, sàn lầu lát ván kín
khít. Vì vậy, trước đây có cả trăm học sinh nội trú trên tầng này, tiếng động
ồn ào của nó vẫn không hề bị ảnh hưởng đến các phòng học bên dưới. Điều đó cho
thấy trong kỹ thuật kiến trúc các công trình này đã có sự tính toán rất chu
đáo. Tầng lầu trước đây được ngăn ra nhiều phòng nhỏ vách ván, nay các tấm vách
ngăn mất đi làm cho cả tầng lầu rộng thênh thang bị trống trãi, chỉ còn lại 4
căn phòng nhỏ của 4 vị trí giám thị ở 4 góc phòng. Hai bên vách lầu là hai dãy
cửa sổ có vị trí và số cửa tương ứng với số cửa vòm hành lang bên dưới, cửa sổ
có hai cánh, làm rập khuôn như cửa vòm hành lang nhưng kích thước nhỏ hơn (cao
1,2 m, rộng 1 m), chân cửa sổ cách sàn lầu 0,8 m.
Trần lầu (plafon) hơi uốn
cong lên, được lợp bằng loại giấy ép cứng (giấy carton), loại giấy này rất tốt,
cho đến nay vẫn không bị bong dộp. Bốn mái lầu lợp ngói móc, hai mái hình thang
cân chạy dọc theo chiều dài dãy lầu, hai mái ngang hình tam giác cân ở hai đầu,
độ nghiêng mỗi mái chừng 450, đặc biệt ở chính giữa thanh đòn dông trên nóc mái
người ta dựng cây thánh giá (crucifix) cao khoảng 0,8 m - dấu hiệu đặc trưng
của một trường học Công giáo. Bộ vì kèo ở phần khung sườn mái được kết cấu bằng
những thanh gỗ to chắc chắn và được bào trơn, không có trang trí gì đặc biệt,
giống như ở các công trình kiến trúc dân dụng bình thường. Toàn bộ dãy nhà chưa
có chỗ nào bị sụt lún, chứng tỏ cấu trúc của nền móng được xây dựng rất kiên
cố.
Song song và đối diện với
dãy nhà vừa kể trên là một dãy khác, có cách bố trí và qui mô kích thước cũng
như kiểu thức gần như đối xứng với dãy nhà kia ở hai bên sân trường. Duy chỉ có
vài điểm khác nhau, dãy này nằm cách tường rào Bắc là 10 m, trên khoảng cách đó
xây một nhà bếp, tiếp theo là hai bể chứa nước to. Căn nhà trệt đầu dãy trước
đây là nhà ăn tập thể, có nóc bằng bê tông làm sân thượng, nhà này cũng nối
liền với dãy lầu 2 tầng. Năm 1945 Nhật đảo chính Pháp đã dùng máy bay ném bom
làm sập tầng lầu, sau đó tầng lầu được khôi phục lại nhưng được xây vách ngăn
ra làm nhiều phòng, có đường hành lang nội bộ để đi vào các phòng, các cửa sổ
thì được làm lại vuông vắn, sàn lầu không còn lát ván mà lát gạch bông.
Quan sát một cách tổng
thể thì trường Taberd Sóc Trăng có cách bố trí và kết cấu tương tự như các
trường học khác xây dựng thời Pháp thuộc ở miền Nam vào khoảng một, hai thập
niên đầu thế kỉ XX như các trường Taberd Sài Gòn, Taberd Mỹ Tho, Collège Cần
Thơ… Cũng có nền móng cao, kiểu thức chân phương, tường gạch dày kiên cố, mái
ngói đỏ, tường rào cao, kín đáo…
Do những đặc điểm chung
gần như qui thức đó, mà khi nhìn vào, chúng ta dễ nhận ra ngay nguồn gốc của
công trình kiến trúc này.
Hiện tại, bên cạnh các
công trình kiến trúc còn tồn tại, chỉ sưu tầm được một số hiện vật như:
- 04 cái bát sứ tráng men
(02 cái to, 02 cái nhỏ) do nhân dân Sóc Trăng quyên góp ủng hộ đoàn Côn Đảo.
- 01 cái chậu sành miệng
loe (đường kính 40 cm, cao 30 cm) do nhân dân Sóc Trăng quyên góp, dùng để rửa
vết thương cho các chiến sĩ Côn Đảo.
- 01 cái chảo sắt (đường
kính 01 m) dùng nấu ăn cho đoàn.
Trường Taberd Sóc Trăng
là địa điểm lưu niệm sự kiện lịch sử quan trọng, lần đầu tiên đoàn chiến sĩ
cách mạng trung kiên của Đảng từ ngục tù dã man nhất của thực dân Pháp ngoài Côn Đảo xa khơi trở về đất liền
đã lưu lại đây trong sự chăm sóc đậm đà “tình dân, nghĩa Đảng” của Đảng bộ và
nhân dân Sóc Trăng trong những ngày sau cách mạng tháng Tám thành công, từ
23/9/1945 đến 30/9/1945.
Qua việc đón rước, chăm
sóc đoàn chính trị phạm từ Côn Đảo
trở về, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng đã hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng có
tầm chiến lược và có ý nghĩa to lớn, càng nêu cao tinh thần đoàn kết và truyền
thống đấu tranh giành độc lập tự do, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc
chính quyền cách mạng mới thành lập trong cả nước, đưa cách mạng Việt Nam tới
thắng lợi vẻ vang. Ngày 16/6/1992 theo Quyết định số 734/QĐ-BVHTT của Bộ Văn
hóa - Thông tin công nhận di tích trường Taberd thuộc phường 6 Thành phố Sóc
Trăng là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia.
Với giá trị và ý nghĩa
lịch sử gắn liền với di tích, trường Taberd Sóc Trăng là một địa chỉ văn hoá
mang tính giáo dục cao đối với thế hệ trẻ về lòng biết ơn các thế hệ cha anh.
Trường Taberd Sóc Trăng và mảnh đất Sóc Trăng không chỉ là mảnh đất kiên trung
anh hùng mà còn sống son sắt thuỷ chung nghĩa tình với Đảng, với đồng chí và
anh em.
Mỗi hành trình về Côn Đảo là một sự trải nghiệm sâu
sắc, có lẻ vì vậy mà du lịch Côn Đảo
hiện nay phát triển không ngừng, trước đây, Côn Đảo là nơi đón tiếp các đoàn
Khách Chính Phủ, các vị Lãnh Đạo từng là cựu tù chính trị Côn Đảo, các Ban Chỉ
Huy Quân Đoàn… còn hiện nay Côn
Đảo là một trong những điểm du lịch mà du khách muốn đến nhất và nhiều du
khách đã tham gia du lịch Côn Đảo
nhiều lần vẫn không hết sự tò mò, thích thú vì Côn Đảo là viên ngọc quý là thành
trì lịch sử có giá trị đối với lịch sử chống ngoại xâm, bào vệ đất nước của dân
tộc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tư liệu “Sơ thảo đề
cương về sự kiện lịch sử - Sóc Trăng đón tiếp chính trị phạm từ Côn Đảo về đất liền tháng 9/1945”
của Khoa lịch sử Đảng Trường Tuyên huấn Trung ương, ngày 21/11/1985.
2. Tài liệu tham khảo
“Cách mạng tháng Tám, tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương”, quyển II, Tổ
lịch sử cách mạng tháng Tám biên soạn, Nxb Sử học, Hà Nội, trang 282.
3. Sơ thảo Lịch sử truyền
thống thị xã Sóc Trăng (1930-1954), Bộ phận nghiên cứu Lịch sử truyền thống thị
xã Sóc Trăng biên soạn năm 1990, trang 42-56.
4. Tư liệu “Sóc Trăng -
Đất nước, con người” của Ban tuyên giáo thị xã Sóc Trăng.
5. Tài liệu “Sự kiện
chính trị phạm từ Côn Đảo về
Sóc Trăng ngày 23/9/1945” của Ban Tuyên giáo thị xã Sóc Trăng.
6. Sơ thảo Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam, tập I (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, trang 406.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét